65 năm xây dựng và trưởng thành – Tự hào truyền thống, vững bước tương lai.

Tâm tình gửi thế hệ hôm nay!

16/11/2025
Đăng bởi THPT ĐOÀN KẾT

        Nhận được thông điệp của thầy hiệu trưởng trường THPT Đoàn Kết Hai Bà Trưng về “Lời tri ân và chia sẻ tư liệu truyền thống… nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập…”, tôi rất xúc động và cảm thấy thật may mắn vì được dịp trải lòng với các em.

Lớp 10B năm học 1968-1969 trước khi chia tay mỗi người mỗi ngả. Trong hình có cô giáo Yến dạy môn sinh vật (thứ 5 hàng thứ 2 bên phải qua); Chị Điển y tá của trường phụ trách học sinh ở làng Từ Vân (thứ 7 hàng thứ 2 bên phải qua); Cô Tuyết dạy môn thể dục (thứ 5 hàng đầu bên trái qua). Phía sau là ngôi nhà lá: lớp học, ngay kế là bếp ăn tập thể và nhà kho.

Các bạn nữ của lớp 10B(1968-1969)

         Các bạn nam của lớp 10B (1968-1969)

           Thế hệ chúng tôi bước chân vào trường THPT Đoàn Kết (thời kỳ đó gọi là trường cấp 3 Đoàn Kết A (Khu phố) Hai Bà Trưng Hà Nội (có khi nói gọn trường Đoàn Kết 3A Hà Nội), đâu được bước qua cổng trường sừng sững, oai nghiêm và ngồi học trong lớp học được xây dựng kiên cố, khang trang và hiện đại như bây giờ. Chúng tôi rất mừng và hạnh phúc khi thấy điều đó, chứ không hề ghen tỵ tiếc nuối, bởi vì thế hệ chúng tôi có niềm kiêu hãnh lớn lao mà thế hệ các em sau này không có được: thế hệ đã đi qua cuộc chiến tranh! Không ai mong muốn điều này, muôn đời không ai mong muốn điều này! Nhưng “trong nguy có cơ”, chúng tôi đã có cơ hội rèn luyện, trưởng thành vượt bậc cả suy nghĩ và hành động.

          Trọn 3 năm học cấp 3: 1966-1969 (lớp 8, 9, 10 – hệ PT 10 năm), chúng tôi sơ tán về làng Từ Vân, xã Lê Lợi, huyện Thường Tín, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Năm học 1966-1967 chúng tôi bước vào lớp 8, những cô bé, cậu bé 15, 16 tuổi ngơ ngơ, ngáo ngáo được bố mẹ chở đến gửi vào nhà dân, không hề quen biết, ở trọ và tự lo lấy cuộc sống của mình: tự giặt giũ, tự dậy sớm tập thể dục, tự lo học bài dưới ngọn đèn dầu leo lét…và ăn cơm tập thể. Nói đến đây, quá khứ ùa về: nhớ các thầy cô quá. Các thầy cô như cha như mẹ quan tâm chăm sóc từng chút một, hướng dẫn, dỗ dành, chỉ bảo… Thầy Quỳnh nghiêm khắc, thầy Ngũ tình cảm, thầy Chung Anh vừa nghiêm vừa hài hước dí dỏm, cả cô y tá Điển cũng gần gũi với đám lau nhau này…Ôi chao là nhớ, là kính, là thương!!! Và người dân mới tuyệt vời làm sao: nhường giường, nhường phản và chỗ rộng nhất trong nhà để chúng tôi có chỗ ngủ, chỗ học bài.

          Lớp học thường ở rìa làng, cột kèo bằng tre nứa, vách lửng bằng rơm trộn với bùn, vắt qua các nan nứa đan thưa gọi là dứng, mái lợp tranh. Mưa bão tốc mái, lớp học bị xiêu, nghiêng hay sập đổ là chuyện có thật, thầy trò lại cùng nhau khắc phục có sự hỗ trợ của người dân. Bên cạnh lớp học, chúng tôi đào hào giao thông để tránh bom đạn máy bay Mỹ. Sau buổi học, chúng tôi thường giúp gia đình mình trọ (gọi là công tác dân vận) như quét nhà, thu dọn thóc, rơm phơi hay thay nhau chăm sóc vườn rau của lớp để cải thiện bữa ăn, thậm chí chúng tôi con nuôi heo (nhờ chuồng nhà dân) để tết hay cuối năm liên hoan! Nhờ đó chúng tôi biết giá trị và quý sức lao động của bố mẹ hơn, biết lao động và cơ thể cũng mạnh mẽ, khỏe khoắn hơn. Chủ Nhật nghỉ học, nhưng đâu có được về nhà, nên tối thứ 7 chúng tôi tổ chức sinh hoạt văn nghệ, thường tập trung ở sân kho hợp tác xã của địa phương hay khoảng sân của lớp học. Chúng tôi say sưa hát, tập hát , múa tập thể (bây giờ gọi dân vũ)… nhờ đó các bạn thật gắn bó, hiểu nhau, thương yêu và giúp nhau cùng tiến bộ.

         Chứng tích của vụ máy bay Mỹ thả bom bi xuống làng Từ Vân

        Một kỷ niệm khó quên. Ngày 3 tháng 9 năm 1967, chúng tôi chuẩn bị vào năm học mới, lớp 9, thì khoảng 14g00 bỗng có tiếng nổ vang trời trong làng. Không biết có phải vì tháo chạy tránh lưới lửa phòng không của quân ta, mà máy bay Mỹ đã thả ẩu bom bi xuống làng Từ Vân, nơi chúng tôi trọ học. Dân làng ngơ ngác, hoc trò ngơ ngác nhưng rồi nhanh chóng hiểu ra sự việc, khẩn trương cấp cứu người bị thương. Lớp 10 B có bạn Tiến béo, lớp 10 C có bạn Trâm, bạn Chương và một số bạn nữa bị thương. Làm gì có xe ô tô cấp cứu như bây giờ, chúng tôi phải dùng cáng, võng khiêng các bạn đi bộ 3, 4 cây số từ trong làng ra quốc lộ mới xin đi nhờ xe tài đến bệnh viện Bạch Mai cấp cứu. Đâu có điện thoại để liên lạc, chúng tôi phân công nhau người đến nhà các bạn báo tin để bố mẹ các bạn biết, người ở lại bệnh viện chăm sóc bạn chờ người nhà đến. Tình thương yêu và trách nhiệm bạn bè được thể hiện thật rõ, thật đẹp và mạnh mẽ, dù mới đầu năm lớp 9 thôi nhé.

Kỷ niệm chiến trường của bạn Nguyễn Cảnh Giao.

Cô Yên cùng học lớp 10B, là giáo viên đi B (Quảng Trị, ngay vùng bom đạn khủng khiếp nhất: huyện Triệu Phong). Sau năm 1975 mới về lại Hà Nội.

         Quyết định điều động vào công tác nơi bom đạn mà như quyết định được hưởng quyền lợi vậy. Vì khi đó "tất cả vì miền Nam ruột thịt"

        Cũng như bao ngôi trường khác, dưới mái trường Đoàn Kết, chúng tôi được giáo dục để trở thành con người “vừa hồng vừa chuyên”.  Có người đi bộ đội chiến đấu ở các chiến trường B, C như Đặng Minh Thiệm, Phạm Hùng, Nguyễn Cảnh Giao, Nguyễn Tiến Thắng…, có người trở về tiếp tục học đại học. Lớp chúng tôi nhiều người là giáo viên như Trần Mai Sỹ, Nguyễn Thuý Lan, Nguyễn Chí Thanh, Vũ Đình Đáp…Đỗ Mạnh Hùng, sau khi tham gia quân ngũ thuộc binh chủng công binh, chiến đấu ở chiến trương B, C, xuất ngũ về tiếp tục học ĐHSP - khoa Sinh, tốt nghiệp về dạy ĐHSP TP Hồ Chí Minh, là một trong 3 tác giả biên soạn Sách giáo khoa môn Sinh học lớp 8, đã được bộ Giáo dục sử dụng trong suốt gần 20 năm qua. Và một người không thể không nhắc đến: Lưu Đình Tú, một con người đặc biệt đã vượt lên nghịch cảnh, làm chủ bản thân, làm chủ cuộc sống, bằng cách dạy toán và phương pháp tư duy toán học thu hút nhiều thế hệ học sinh theo học và rất nhiều em đã thành đạt là giáo sư, tiến sỹ… sau 20 năm, 30 năm vẫn ghé thăm thầy Tú. Đặc biệt bạn Nguyễn Thị Yên đã vào tuyến lửa Quảng Trị, thật sự “bục giảng dưới hầm sâu em cũng là chiến sỹ” để dạy các em nhỏ, thực sự làm chức năng Thầy giáo - chiến sỹ! Người giữ cương vị cao nhất trong sự nghiệp giáo dục là Chu Quốc Thắng: Phó hiệu trường trường ĐH Quốc Tế - ĐH QG TP Hồ Chí Minh. Thế hệ chúng tôi là vậy đấy, không thể nào quên, đến nay mỗi người mỗi phương, nhưng năm 2019, nhân kỷ niệm 50 năm ngày ra trường, chúng tôi đã tổ chức gặp nhau, ôn lại kỷ niệm xưa, sao ấm cúng thân thương lạ. Tháng 9 năm 2025 vừa qua, chúng tôi lại tề tựu “giao lưu mùa thu Hà Nội  - TP Hồ Chí Minh”. Chúng tôi không ai giàu có tiền bạc, nhưng lại rất giàu có tình nghĩa bạn bè.

    Phạm Văn Lập, lớp trưởng của lớp 3 năm liền (lớp 8, 9, 10)     

Chu Quốc Thắng, bí thư chi đoàn lớp, trước khi nghỉ hưu là PGS, TS, Nhà giáo Ưu tú và Phó Hiệu trưởng ĐH quốc tế - ĐH QG TP Hồ Chí Minh.

Sau 50 năm gặp lạ, cũng là lần đầu tiên tổ chức gặp mặt.

          Mong lắm các bạn trẻ ngày nay, đã được đứng trên vai các thế hệ đi trước, hãy mạnh mẽ vươn lên, bay cao và bay xa hơn nữa để chúng tôi tươi cười hạnh phúc nói: Ồ, con cháu chúng ta giỏi thật! Đó cũng chính là tâm nguyện, là ước vọng của chúng tôi, lớp người “xưa nay hiếm” (đều thất thập cả rồi) gửi gắm cho thế hệ tiếp nối!

Ngày 10/11/2025  -  Phạm Dũng, Học sinh lớp 10B năm học 1968-1969.

Ý kiến của bạn
0438634652
popup

Số lượng:

Tổng tiền: