Tôi rời trường Hai Bà Trưng từ năm học 1978–1979 và nghỉ hưu từ tháng 6 năm 1993. Xa trường đã lâu, nhưng năm nào cũng vậy, vào những dịp trọng đại của năm học như ngày khai giảng hay ngày 20/11, tôi đều được Ban giám hiệu mới mời về chung vui cùng các đồng nghiệp cũ.

Không niềm vui nào sánh được khi tận mắt chứng kiến sự phát triển của nhà trường hôm nay. Tôi vui mừng vì con em chúng ta được học tập trong điều kiện khang trang, hiện đại. Trường đã được công nhận là trường chuẩn quốc gia – một niềm tự hào lớn lao.
Tôi nhớ lại năm học 1972–1973, khi giặc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, các trường học từ nơi sơ tán trở về Thủ đô. Khi ấy, tôi đang là Hiệu trưởng Trường Phổ thông Ban đêm cấp 3 số 4, được Sở điều về làm Hiệu trưởng Trường Phổ thông Công nghiệp cấp 3 Hai Bà Trưng. Lúc đó, trường Hai Bà Trưng học buổi sáng, còn trường Đoàn Kết học buổi chiều. Trường Hai Bà Trưng được giao nhiệm vụ chăm lo cơ sở vật chất – vốn còn rất thiếu thốn.
Nhà trường khi ấy có một tòa nhà bốn tầng. Ba tầng trên dùng cho 15 lớp học của hai trường sáng – chiều; tầng một phải bố trí 2 phòng cho Ban giám hiệu, 2 phòng hội đồng và 2 văn phòng. Phòng thí nghiệm chỉ là một gian nhà cấp 4 nhỏ sát cổng trường, đủ làm kho chứa đồ dùng dạy học. Là trường phổ thông công nghiệp, trường Hai Bà Trưng còn có khu xưởng thực hành gồm: xưởng nguội, xưởng thêu, cùng dãy nhà cấp 4 chật hẹp cho các xưởng rèn, hàn, mộc, điện, kho.
Khi năm học mới bắt đầu, số học sinh tăng nhanh, Sở Giáo dục xây thêm 5 phòng học cấp 4 ở sân sau, khiến sân chơi học sinh càng hẹp. Do khu nhà mới vừa xây xong chưa kịp sử dụng thì trường phải đi sơ tán, thành phố cho xí nghiệp Maggi xì dầu mượn làm kho chứa, nên cổng trường khi đó mở chung với công trường. Phía mặt tiền lại có một chợ cóc kéo dài suốt dọc tường rào, ồn ào cả ngày, ảnh hưởng đến việc dạy và học, gây khó khăn cho học sinh đi lại. Tôi đã phải mất khá nhiều thời gian lên Sở Địa chính thành phố xin lại mảnh đất ấy.
Trường chưa kịp xây cổng mới thì tôi đã chuyển công tác. Nay cổng trường đã được đưa về chính diện, sân trường mở rộng thêm bốn mét về chiều ngang. Khu vực xung quanh vốn là vùng bị bom Mỹ tàn phá, sau hòa bình được xây dựng lại, cốt nền nâng cao khiến khu trường cũ trở nên trũng thấp. Trước kia, mỗi khi trời mưa, sân trường thường ngập úng, phải dùng máy bơm hút nước. Giờ đây, toàn bộ trường đã được xây dựng lại khang trang, nền sân cao ráo, rợp bóng cây xanh – không còn cảnh ngập nước như xưa.
Hôm ấy là ngày Quốc tế Nhà giáo, tôi về trường sớm như thuở còn công tác. Chứng kiến không khí học sinh đến trường, lòng tôi bồi hồi xúc động. Từng tốp học sinh ríu rít, tươi vui, khuôn mặt rạng rỡ. Nhiều nữ sinh áo dài tha thướt, các em trai gái mặc đồng phục gọn gàng, giày thể thao đúng mốt. Nhiều em đèo nhau bằng xe đạp, xe máy đến trường, tiếng nói cười rộn rã.
Sân trường ngày hội được trang hoàng rực rỡ, nghiêm trang. Học sinh ngồi ngay ngắn theo hàng lối, trên sân phủ tấm bạt ni-lông ba màu xanh – trắng – đỏ căng rộng. Sân khấu biểu diễn lớn, hệ thống loa công suất cao, âm thanh vang dội. Cả sân trường lung linh sắc màu, rộn ràng tiếng cười.
Giờ khai mạc bắt đầu. Nhiều tiết mục múa hát được chuẩn bị công phu, trang phục chẳng khác gì các đoàn ca múa chuyên nghiệp. Lời ca, tiếng hát vang vọng khắp khu trường, khiến tôi nhớ lại thời xưa, khi cả trường chỉ có một chiếc loa tay. Các tiết mục múa tập thể đồng đều, thuần thục.

Tôi rảo bước qua các lớp học. Mỗi lớp nay có bốn dãy bàn, đủ chỗ cho 48 học sinh, khác hẳn trước kia – khi bàn năm chỗ ngồi vừa chật chội, vừa bất tiện. Tôi thầm mừng vì các lớp học nay được trang bị bàn hai chỗ.
Sau khi rời trường lên Sở, làm Trưởng phòng Kế hoạch và Thiết bị, hàng năm tôi phải lập kế hoạch xây dựng thêm 50–100 lớp học cho toàn thành phố. Chính tôi đã đề nghị trang bị bàn ghế hai chỗ thay cho bàn năm chỗ. Dù kinh phí tăng, nhưng sau hai ba lần trình bày, thành phố đã phê duyệt. Từ năm học 1979–1980, các lớp học mới bắt đầu có bàn ghế hai chỗ, lớp cũ cũng được thay dần. Khi đó bàn ghế toàn bằng gỗ, rất tốn kém; nay trong nước đã sản xuất được thép ống nên việc làm bàn ghế thuận tiện và tiết kiệm hơn. Tôi thấy trên truyền hình, các lớp học vùng cao cũng đã được trang bị bàn ghế hai chỗ – thật đáng mừng biết bao!
Tôi ghé qua các phòng học bộ môn: Tin học, Vật lý, Hóa học, Ngoại ngữ... Phòng nào cũng được trang bị đầy đủ thiết bị dạy học. Nhà thể chất khang trang, có cả bàn bóng bàn cho học sinh rèn luyện.
Các tiết mục văn nghệ vẫn tiếp tục. Học sinh trật tự thưởng thức, các thành viên câu lạc bộ nhiếp ảnh chạy khắp sân trường ghi lại khoảnh khắc đáng nhớ của ngày hội.
Tôi trở lại khu vực giáo viên, được gặp lại các thầy cô cũ, cùng nhau chuyện trò, hỏi thăm sức khỏe, con cháu, nhắc lại một thời gian khó, nhớ tới những người đã đi xa: bác Duyệt, thầy Thời, thầy Bống, thầy Thung, thầy Trường, cô Minh... Ai nấy đều xúc động và tự hào trước những đổi thay của ngôi trường thân yêu.
Nhìn lại, chúng tôi càng vui mừng vì giáo dục Thủ đô đã phát triển vượt bậc. Năm 1954, khi quân ta tiếp quản Thủ đô, toàn thành phố chỉ có 2–3 trường phổ thông trung học (khi ấy gọi là cấp 3). Đến những năm 1960, dù đang trong chiến tranh chống Mỹ, hàng loạt trường mới được thành lập: PTCN Hà Nội, Đoàn Kết 3, Đống Đa 3; ngoại thành có Yên Hòa, Xuân Đỉnh, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá Quát, Việt Ba... Nhờ hòa bình, thống nhất đất nước và sự đầu tư thích đáng cho giáo dục, công tác quản lý, giảng dạy không ngừng được đổi mới, trường lớp khang trang, ngành giáo dục nước nhà có những bước tiến rõ rệt.
Tôi tin rằng đất nước ta rồi sẽ tiến kịp nền văn minh thế giới.
Tác giả: Hồ Khắc Đính
Nguyên Hiệu trưởng Trường Phổ thông Công nghiệp Hai Bà Trưng